Quy định về các loại năng lực hành vi pháp luật dân sự mới nhất. Phân tích năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo quy định của pháp luật dân sự.
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân được quy định cụ thể tại Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là một trong những nội dung vô cùng quan trọng của Bộ luật Dân sự, bởi vì đây là cơ sở để xem xét một chủ thể có tư cách tham gia xác lập, thực hiện một quan hệ pháp luật hay không. Nội dung này được quy định tại Chương III của Bộ luật Dân sự. Qua bài viết này, Luật Nam Phát xin trình bày, bình luận nội dung các quy định của pháp luật về các loại năng lực hành vi pháp luật dân sự mới nhất
Thứ nhất, năng lực hành vi dân sự của cá nhân.
Tại Điều 19 Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân như sau:
”Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.”
Năng lực hành vi dân sự là một bộ phận cấu thành của năng lực chủ thể của cá nhân trong quan hệ pháp luật dân sự (năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự). Đối với năng lực pháp luật của cá nhân, từ khi sinh ra, cá nhân đã có quyền và nghĩa vụ dân sự. Nhưng khả năng tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự không phát sinh đồng thời với thời điểm cá nhân có được các quyền và nghĩa vụ dân sự đó.
Để tự mình thực hiện được quyền và nghĩa vụ dân sự của bản thân, cá nhân phải có khả năng nhân thức và làm chủ được hành vi mà cá nhân xác lập trong các quan hệ pháp luật dân sự. Điều này sẽ bảo đảm được quyền lợi của chính cá nhân là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự và cũng bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác. Ví dụ, kể từ khi sinh ra, cá nhân đã có quyền được tham gia vào các hợp đồng nhưng nếu đứa trẻ ba tuổi tiến hành bán tài sản có được từ việc thừa kế cho người khác thì rõ ràng quyền lợi của cả người mua và người bán đều không được bảo đảm. Vì vậy, khả năng tự mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự chính là năng lực hành vi dân sự của cá nhân.
Việc xác định khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mỗi cá nhân khi tham giao vào quan hệ pháp luật dân sự khó có thể thực hiện đối với mỗi quan hệ phát sinh trên thực tế. Bởi vì trong dân sự, số lượng các quan hệ mà các chủ thể tham gia hàng ngày, thường là rất lớn, không thể yêu cầu trong quan hệ dân sự nào chủ thể cũng phải đưa ra chứng cứ chứng minh về khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Vì thế, các quy định của Bộ Luật dân sự đưa ra cách suy đoán pháp lý về khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của cá nhân về cơ bản dựa trên yếu tố độ tuổi, ngoài ra, trong một số trường hợp là dựa vào những yếu tố khác. Do đó sự phân biệt về khả năng nhận thức của mỗi cá nhân, năng lực hành vi dân sự của cá nhân được chia thành các mức độ khác nhau giữa các cá nhân khác nhau.
Thứ hai, năng lực hành vi dân sự của người thành niên.
Theo Điều 20 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về người chưa thành niên như sau:
”Người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi trở lên.”
Quy định này xác định khái niệm người thành niên phụ thuộc vào độ tuổi. Theo đó, người thành niên là người có độ tuổi từ đủ mười tám tuổi trở lên.
Khái niệm này là cơ sở áp dụng đối với những trường hợp sử dụng thuật ngữ “người thành niên” trong các quy định cụ thể của các văn bản là nguồn của luật dân sự, áp dụng điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực dân sự, áp dụng điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực dân sự. Ví dụ, các quy định liên quan đến người đã thành niên tại Điều 53 – Người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự, Điều 625 – Người lập di chúc…
Thứ ba, năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên.
Quy định này xác định khái niệm người chưa thành niên phụ thuộc vào độ tuổi. Theo đó, người chưa thành niên là người có độ tuổi chưa đủ mười tám tuổi. Khái niệm này là cơ sở áp dụng đối với những trường hợp sử dụng thuật ngữ ”người chưa thành niên” trong các quy định cụ thể của các văn bản là nguồn của luật dân sự, áp dụng điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực dân sự. Ví dụ, các quy định về người chưa thành niên tại Điều 41 – Nơi cư trú của người chưa thành niên, Điều 47- Người được giám hộ, Điều 586 – Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân…
Năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên được chia theo các khoảng khác nhau, phụ thuộc vào độ tuổi. Theo đó, tất cả các giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi đều phải do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện. Do đó, mọi giao dịch dân sự, kể cả việc mua các đồ dùng học tập, đồ dùng sinh hoạt hàng ngày, cá nhân chưa đủ sáu tuổi cũng không được tự mình thực hiện.
Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi đã bắt đầu có một phần năng lực hành vi dân sự. Những người này đã có thể bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trong một số trường hợp. Tuy nhiên, trong những trường hợp còn lại, họ chưa được quyền tự mình tham gia. Về cơ bản, hầu hết các giao dịch dân sự của những người này đều phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý. Những giao dịch phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc trong những trường hợp khác do pháp luật quy định thì những người này có thể tự mình xác lập, thực hiện bằng hành vi của mình. Ví dụ đứa trẻ 10 tuổi có thể tự mình mua một chiếc bút bi về sử dụng.
Thứ tư, năng lực hành vi dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự.
Quy định này đưa ra căn cứ để suy đoán pháp lý về khả năng nhận thức và làm chủ hành vi để xác định năng lực hành vi dân sự của cá nhân trên thực tế. Theo đó, cá nhân được xác định là mất năng lực hành vi dân sự khi có yếu tố:
– Mắc bệnh liên quan đến tâm thần (bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình);
– Có yêu đầu (theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan).
– Có kết luận của tổ chức giám định về tình trạng bệnh của cá nhân.
– Có quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án (Tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần).
Khi cá nhân được xác định là mất năng lực hành vi dân sự, hậu quả pháp lý đối với họ cũng tương tự như đối với người chưa đủ sáu tuổi. Theo đó, mọi giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự cũng phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.
Mất năng lực hành vi dân sự không phải là một mức độ năng lực hành vi dân sự mà là một tình trạng của năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong một khoảng thời gian nhất định đối với cá nhân bị mắc các bệnh về tâm thần, hoặc bệnh khác mà ảnh hưởng đến khả năng nhận thức và làm chủ hành vi.
Thứ năm, năng lực hành vi dân sự của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Về khái niệm trong nhận thức, làm chủ hành vi được quy định tại Điều 23 Bộ luật dân sự năm 2015, theo đó nội dụng cụ thể như sau, người thành niên mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự bởi nhiều nguyên nhân khác nhau như do tình trạng thể chất hoặc tinh thần tác động lên, thì những người này hoặc người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan yêu cầu Tòa án tuyên bố người này là khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Đồng thời Tòa án chỉ định người giám hộ cho người đó, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.
Điều luật này rất có ý nghĩa đối với thực tế xã hội có rất nhiều người vì những lý do khác nhau (như sức khỏe, tình trạng tình thần, tuổi tác, bệnh tật, tai nạn…) dẫn đến khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của họ rất yếu. Tuy nhiên, các cá nhân này lại không có tình trạng như người mất năng lực hành vi dân sự hoặc có những nguyên nhân khác với nguyên nhân để tuyên người mất năng lực hành vi dân sự nên trước đây, tình trạng năng lực hành vi dân sự của họ, do thiếu vắng quy định của pháp luật, đều vẫn được xác định là đầy đủ. Thực trạng này dẫn tới những hậu quả bất lợi về quyền, nghĩa vụ của chính bản thân các cá nhân này cũng như những chủ thể khác có liên quan.
Điều luật này đưa ra một tình trạng ”đặc biệt” về năng lực hành vi dân sự của cá nhân, đó là: có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi. Theo đó, cá nhân được xác định đang thuộc vào trường hợp này khi có các điều kiện sau:
– Điều kiện thứ nhất là độ tuổi từ mười tám tuổi trở lên, theo quy định của pháp luật dân sự thì được gọi là người thành niên.
– Điều kiện thứ hai là người này chưa hoàn toàn mất năng lực hành vi dân sự, mà chỉ khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Có thể hiểu đơn giản là người bị bệnh này lúc tỉnh táo bình thường, lúc không bình thường, không đủ sức khỏe thể chất hoặc tinh thần để điều khiển hành vi.
– Điều kiện thứ ba là phải có yêu cầu của chính bản thân người bị khó khăn, làm chủ hành vi hoặc người có quyền, lợi ích liên quan với người đó hoặc tổ chức, cơ quan hữu quan yêu cầu đối với Tòa án tuyên bố khó khăn trong làm chủ hành vi, trong nhận thức.
– Điều kiện thứ tư là phải có kết luận của giám định pháp y tâm thần, đây là căn cứ, cơ sở cho việc Tòa án ra quyết định.
– Điều kiện thứ năm là phải có quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật tuyên bố người được yêu cầu có khó khăn trong điều khiển hành vi, làm chủ nhận thức. Khi Tòa án tuyên bố về năng lực hành vi dân sự của cá nhân này, đồng thời, Tòa án cũng chỉ định người giám hộ và xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.